Nghĩa Đô là vùng đất cổ, nơi quần cư của đồng bào Tày. |
Những ngày cuối năm, một lớp học đặc biệt được mở tại vùng đất Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên). Học viên là cán bộ xã, thôn, bản, người dân và học sinh trên địa bàn. Thầy giáo là Nghệ nhân Ưu tú của quê hương – ông Ma Thanh Sợi. Suốt 5 ngày học, nghệ nhân đã truyền tới thế hệ sau về văn hóa dân gian, tập quán, lễ hội, nghề truyền thống… Đặc biệt hơn cả là ôn lại để con cháu biết về nguồn gốc và sự hình thành của Nghĩa Đô.
Lớp học truyền dạy văn hóa dân tộc cho thế hệ trẻ của Nghệ nhân Ưu tú Ma Thanh Sợi. |
Nhắc đến Nghĩa Đô là nói tới một vùng đất cổ, nơi quần cư của đồng bào Tày. Từ những tài liệu ghi chép của Nghệ nhân Ưu tú Ma Thanh Sợi, câu chuyện về sự hình thành làng được kể lại.
Đầu thế kỷ thứ XV, có 3 anh em người Tày từ Mướng Giáng (Hà Giang ngày nay) do loạn lạc, khó khăn, nghèo đói, rủ nhau đi theo hướng mặt trời lặn để tìm đất mới sinh cơ lập nghiệp. Hơn một tháng sau, họ tìm thấy một thung lũng bằng phẳng, tiến sâu vào trong có khu rừng bạt ngàn cây cổ thụ. Dưới tán cây rừng là những cánh đồng, ao hồ, nền nhà… dấu tích còn lại của cư dân cổ. Họ thấy đây là miền đất lành, màu mỡ nên quyết định phân vùng cùng nhau lập nghiệp. Người anh cả tên là Hoàng, ở thượng nguồn, chính là khu Bản Đon, Pác Bó hiện nay. Người anh thứ hai tên là Lương, ở quả đồi bằng phẳng giữa vùng, ngày nay là khu Pú Phi, bản Thâm Mạ. Người em út tên là Cổ, ở khu đất cánh đồng cổ, ngày nay là bản Pồng Phấn, Thâm Luông. 3 gia đình sinh cơ, lập nghiệp tạo thành 3 bản. Họ đi ra các bản Tày – Nùng trong vùng kết nghĩa anh em, tìm vợ, gả chồng cho con cháu và bản được mở rộng dần.
Từ những tài liệu ghi chép của Nghệ nhân Ưu tú Ma Thanh Sợi, câu chuyện về sự hình thành làng được kể lại. |
Cứ như thế trải qua nhiều thế kỷ sinh sống và phát triển, các mảnh đất bằng phẳng trong thung lũng được khai khẩn, lập thêm nhiều bản làng, thôn xóm. Các bậc cai quản địa phương tập hợp các khu dân cư lại lập nên mường, rồi mường lớn hơn, mở rộng thêm nhiều khu dân cư đến tận chân núi tạo thành mường rộng lớn, đặt tên là Mường Quảng, sau đó người Tày gốc vùng này gọi là Mường Luông (nghĩa là bản rộng lớn). Địa danh Mường Luông hình thành vào đầu thế kỷ thứ XVII, kéo dài đến cuối thế kỷ thứ XVIII thì bị mất do cuộc nổi loạn giặc cờ trắng của người Mán tẻn ở Roòng Dạng (thuộc Bản Cái, Bắc Hà ngày nay). Khi chiếm được Mường Luông, chúng bắt phải xóa bỏ tên thành Bản Khuông, sau vài năm đặt tên là Mường Khuông.
Với mong muốn tìm kiếm thánh hiền phù hộ cho bách tính an cư lạc nghiệp, mùa màng bội thu, Mường Khuông cho người dân chia làm 3 tốp đi đến nhiều nơi tìm kiếm và xin thánh hiền về thờ. Sau một thời gian tìm kiếm, cuối cùng Mường Khuông thống nhất cử người lên bản Trung Đô của người Tày Mường Bảo Nhai để xin một nhánh đức Chúa trên đền Trung Đô về thờ. Sau khi bản Trung Đô đồng ý, năm 1850, Mường Khuông tổ chức ngày tế đền và chính thức nhận một nhánh đền về thờ, đặt tên là đền Nghĩa Đô, Mường Khuông đổi tên thành Mường Nghĩa Đô, địa danh mang tên đó cho đến ngày nay.
Dân tộc Tày ở vùng Nghĩa Đô đã cùng nhau đi qua những thăng trầm, biến thiên của lịch sử để gìn giữ khối đoàn kết, keo sơn cho đến tận ngày nay. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn và chinh phục thiên nhiên ấy, những người con nơi đây đã tạo ra nhiều phong tục, tập quán mang đậm nét văn hóa của dân tộc Tày nói chung và của tuyến đệm văn hóa Tày giữa Đông Bắc và Tây Bắc nói riêng, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Ngày nay, bằng vốn văn hóa cổ truyền, đồng bào Tày đã bắt tay vào làm du lịch cộng đồng để cuộc sống nơi đây “thay da đổi thịt”.
Du lịch Nghĩa Đô hình thành và đang dần thu hút du khách bởi sự yên bình và bề dày giá trị văn hóa của đồng bào Tày. |
Không tấp nập du khách, không ồn ào, xô bồ, không có cả những điểm check-in hiện đại, du lịch Nghĩa Đô hình thành và đang dần thu hút du khách bởi chính sự yên bình và bề dày giá trị văn hóa vốn có của đồng bào Tày. Là một trong số những hộ dân đầu tiên chỉnh trang nhà sàn của gia đình để làm homestay đón khách, “Mè Thiều” ở Bản Hón đang là điểm đến hấp dẫn khi tới Nghĩa Đô. Trò chuyện với chủ homestay trong một không gian đậm bản sắc, có tiếng nước chảy róc rách từ cọn nước, hương trà quế mật ong thơm dịu, chị Hoàng Thị Thúy tâm sự: “Chúng tôi được học cách pha trà bằng những nguyên liệu sẵn có ở địa phương như quế, lá vối, chè xanh… và học cách đón tiếp khách từ lớp học làm du lịch cộng đồng do địa phương và Sở Du lịch Lào Cai tổ chức. Các giảng viên hướng dẫn tận tình giúp chúng tôi tự tin hơn khi giao tiếp với khách du lịch”.
Bảo tồn nghề dệt thổ cẩm, lưu giữ nét văn hóa độc đáo của dân tộc. |
Từ ngôi nhà sàn 3 gian 2 chái của cha ông để lại có tuổi đời gần 40 năm, nhận thấy những tiềm năng để phát triển du lịch tại địa phương, gia đình chị Thúy đã mạnh dạn vay vốn đầu tư chỉnh trang nhà ở, bổ sung một số hạng mục như cổng nhà, sân, vườn, chòi ngắm cảnh, trồng thêm nhiều hoa, cây xanh để đón khách. Đặc biệt, với đôi tay khéo léo, chị Thúy dùng những sản phẩm thổ cẩm của đồng bào Tày để trang trí, nấu các món ăn cổ truyền của dân tộc, tạo điểm nhấn, tăng sức hút đối với du khách.
Bà con gìn giữ nếp nhà sàn truyền thống trở thành homestay đón khách du lịch. |
Không chỉ gia đình chị Thúy, những năm gần đây, du lịch cộng đồng đã góp phần mang lại sinh kế cho nông dân, đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Những nông dân “chân lấm tay bùn” vừa tạo ra sản phẩm hàng hóa vừa trở thành hướng dẫn viên du lịch. Vui mừng vì cùng gia đình có những ngày nghỉ cuối tuần ý nghĩa, chị Nguyễn Phương Anh đến từ thành phố Lào Cai bộc bạch: “Tôi rất ngạc nhiên với sự đổi thay ở nơi này. Ẩm thực Nghĩa Đô rất tuyệt vời, nhà ở và đường làng đều sạch đẹp, người dân niềm nở và không gian yên bình”.
Giữ gìn và truyền dạy nghề đan lát. |
Du lịch Nghĩa Đô được xây dựng có chiều sâu với việc lấy văn hóa bản địa làm nền tảng cốt lõi, người dân trực tiếp làm du lịch. Địa phương đã tiến hành bảo tồn và phục dựng các trò chơi dân gian, nghi lễ Then, hát Then và các nghề đan lát, nghề dệt truyền thống. Đồng thời, khuyến khích người dân chế biến các món ăn đặc trưng của dân tộc, góp phần quảng bá nét đẹp Nghĩa Đô tới du khách và tăng thu nhập cho người dân. Đến với Nghĩa Đô hôm nay, du khách sẽ có dịp hòa mình vào không khí của phiên chợ quê, tham quan người dân tận tay làm nên những dụng cụ sản xuất và mua sắm các loại hàng thổ cẩm, váy áo truyền thống; được thưởng thức ẩm thực mang đậm bản sắc địa phương với nhiều món lạ nhưng không kém phần hấp dẫn như cá gói lá dong vùi tro bếp, nhộng cọ lam, thịt vịt bầu lam ống nứa, nộm rau rừng, ếch núi nướng, các món ăn từ quả trám…
Với hơn 98% hộ sống dưới nếp nhà sàn, hiện Nghĩa Đô đã có 17 hộ sử dụng chính ngôi nhà truyền thống làm homestay đón khách. Trong năm 2022, xã Nghĩa Đô đón hơn 14 nghìn lượt du khách.
Ông Lý Văn Nội, Chủ tịch UBND xã Nghĩa Đô cho biết: Tháng 9/2021, Nghĩa Đô được UBND tỉnh công nhận là điểm du lịch, từ đó ý thức của người dân càng được nâng cao. Bà con chủ động chỉnh trang nhà ở, gìn giữ, bảo vệ môi trường. Từ làng thuần nông, Nghĩa Đô dần trở thành điểm du lịch cộng đồng hấp dẫn người dân và du khách.